Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

Mỏ vàng Tương Dương - Cơ hội đầu tư



MỎ VÀNG TƯƠNG DƯƠNG

CƠ HỘI ĐÂU TƯ

 

 

 

MỤC LỤC

 

 

I.    MỞ ĐẦU

I. KHÁI QUÁT CẤU TRÚC CHỨA VÀNG TƯƠNG DƯƠNG

1.1. Lịch sử nghiên cứu và khai thác

1.2. Đặc điểm địa chất của cấu trúc chứa vàng Tương Dương

1.3. Tiềm năng vàng vùng Tương Dương

II. MỎ VÀNG YÊN NA

2.1. Thông tin về chủ Dự án

2.2. Các thông tin chính của khu mỏ

2.3. Hiện trạng khu mỏ

2.4.  Tóm tắt  đặc điểm mỏ vàng Yên Na

2.4. Hiện trạng pháp lý của mỏ

III. KẾT LUẬN

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 


MỞ ĐẦU

 

Vàng là một kim loại quý đã được con người sử dụng cho nhiều mục đích hàng ngàn năm trước đây. Hiện nay, hàng ngàn tấn kim loại vàng đã được khai thác và chế biến mỗi năm trên thế giới. Nam Phi, Úc, Canada, Nga, Trung Quốc là những nước có nhiều tiềm năng và sản xuất kim loại vàng nổi tiếng trên thế giới. Việt Nam cũng là nước có nhiều khu vực có tiềm năng có mỏ vàng lớn. Một trong số này là Đới cấu trúc chứa vàng Tương Dương. Cấu trúc chứa vàng Tương Dương bao gồm một phần diện tích của huyện Tương Dương và phần đầu của huyện Con Cuông, chạy dọc theo thung lũng sông Cả với diện tích khoảng 200km2 là một khu vực miền núi nằm ở phía Tây-Tây Nam của tỉnh Nghệ An. Đây là một khu vực rất có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản. Trong các loại hình khoáng sản trên địa bàn Tương Dương, vàng có vai trò nổi bật. Vàng tại khu vực Tương Dương đã được người Pháp chú ý thăm dò từ gần 100 năm trước đây. Kết quả nghiên cứu và khảo sát bước đầu của các cơ quan địa chất cho thấy, Tương Dương là một vùng rất có tiềm năng về vàng với trữ lượng có thể lớn tới vài chục tấn. Trong những năm gần đây, trên địa bàn Tương Dương đã có những cơn sốt đi đào, đãi vàng, nhiều người đã lấy được những khối vàng tự sinh nặng vài kg. Tuy nhiên việc khai thác vàng tùy tiện chỉ có thể thực hiện ở phần nổi trên hoặc gần mặt đất (vàng sa khoáng và các lò giếng nông), trữ lượng vàng thực sự nằm ở dưới sâu chưa được nghiên cứu và đánh giá đầy đủ do đó cũng chưa có một doanh nghiệp nào đầu tư thỏa đáng cho công tác khai thác vàng quy mô công nghiệp, sử dụng triệt để tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, với khả năng của mình, Công ty Cổ phần Xây dựng và Thương mại Tổng hợp Thủ Đô phối hợp với Công ty Cổ phần khai thác mỏ và Xây dựng Nam Giang đã hoạch định một kế hoạch thăm dò toàn bộ cấu trúc khống chế quặng vàng Tương Dương và năm 2008 đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép thăm dò vàng một phần diện tích đặc trưng cho toàn bộ cấu trúc khống chế quặng Tương Dương tại khu vực Yên Na-Yên Tĩnh. Kết quả thăm dò bước đầu cho thấy chỉ riêng trên diện tích khoảng gần 0,13km2 ở độ sâu nghiên cứu khoảng 70 m đã phát hiện được 6 thân quặng vàng với trữ lượng 0,4 tấn. Với cấu trúc địa chất tương tự có thể mở rộng ra những khu vực xung quanh, theo phương pháp analog thì khu vực Tương Dương thực sự là một khu vực có tiềm năng lớn về vàng.

Với tư cách là người chủ hợp pháp và được sự ủng hộ mạnh mẽ của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, Công ty Cổ phần Xây dựng và Thương mại Tổng hợp Thủ Đô và Công ty Cổ phần khai thác mỏ và Xây dựng Nam Giang mong muốn được hợp tác với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để cùng khai phá tiềm năng vàng Tương Dương ở quy mô công nghiệp nhằm sử dụng triệt để tài nguyên, bảo vệ môi trường và góp phần phát triển kinh tế xã hội Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng.

 


I. KHÁI QUÁT CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT VÀ TIỀM NĂNG CHỨA VÀNG Ở KHU VỰC TƯƠNG DƯƠNG

1.1. Lịch sử nghiên cứu và khai thác

1.1.1. Lịch sử nghiên địa chất  và thăm dò

- Thời kỳ thuộc Pháp, công tác nghiên cứu địa chất do các nhà địa chất Pháp tiến hành. Theo dân cư địa phương kể lại: trong khu vực mỏ người Pháp đã triển khai khoan 05 lỗ khoan, trên đỉnh khu mỏ 03 lỗ, dưới chân núi khu xã Yên Tĩnh 02 lỗ.

- Trong giai đoạn sau hòa bình lập lại (sau năm 1954), các nhà địa chất đã phát hiện vùng Yên Na có chứa vàng sa khoáng.

- Năm 1962-1964, Các Đoàn Địa chất 20 và 23 (Tổng cục Địa chất) tiến hành tìm kiếm, đánh giá mỏ vàng sa khoáng Yên Na.

- Trong những năm 1974 – 1978, Đoàn 20 B đã tiến hành kiểm tra, xác định lại quy mô và triển vọng quặng vàng vùng Tương Dương, Nghệ An.

- Năm 1988, Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ tiến hành tìm kiếm đánh giá tỷ lệ 1:2000 vàng sa khoáng ở các Canh Cháp (xã Thạch Giám), Bản Chổng (xã Tam Đình), Tiến Thành (Tam Quang) và tại Yên Na; đã xác định được TNDB: khoảng hơn 6 tấn vàng; Riêng tại Yên Na đã xác định được trữ lượng sa khoáng cấp C2: 114kg. Ngoài ra, còn tiến tìm kiếm quặng vàng gốc tỷ lệ 1:10000 ở Xiềng Líp (xã Yên Hòa) với kết quả một số mẫu giã đãi lên tới 5g/tấn.

- Từ năm 2008 đến 2010, Công ty cổ phần Xây dựng và Thương mại tổng hợp Thủ Đô đã tiến hành thăm dò tại khu vực mỏ vàng Yên Na với với diện tích 126.71 ha và xác định được trữ lượng vàng của khu vực thăm dò khoảng gần 0,4 tấn (tính đến độ sâu hơn 70m).

1.1.2. Hiện trạng khai thác

- Khai thác thổ phỉ: Tương Dương là một địa bàn rất giàu vàng, nhân dân địa phương các xã trong huyện Tương Dương đã khai thác thủ công từ nhiều năm trước. Gần đây (2009) đã có một số người nhặt được nhiều cục vàng to đến vài kg (xem mẫu tại ảnh bìa). Dân đào vàng thổ phỉ từ Thái Nguyên, Nam Định kéo vào cùng dân địa phương tạo nên cơn sốt đào vàng.

- Tình hình khai thác tận thu có giấy phép của địa phương:

Tại tỉnh Nghệ An, cho đến năm 2009, có 3 đơn vị được cấp giấy phép vàng sa khoáng ở khu vực Tương Dương (Hiện giấy phép đã hết hiệu lực khai thác). trong đó có công ty Việt Lào được UBND tỉnh Nghệ An cấp phép khai thác tận thu vàng sa khoáng trên các dòng suối nhỏ xung quanh khu vực mỏ. 

1.2. Đặc điểm Địa chất của Cấu trúc vàng Tương Dương

1.2.1. Địa tầng

Theo các công trình đo vẽ bản đồ địa chất tỷ lệ 1:200.000 và tỷ lệ 1;50.000 đã công bố, trong diện tích vùng Tương Dương có mặt 6 phân vị địa tầng có tuổi từ Paleozoi đến Kainozoi, trong đó các phân vị địa tầng Paleozoi chiếm ưu thế.


Hình 1. Sơ đồ địa chất-Khoáng sản vùng Tương Dương với vị trí các mỏ vàng (các điểm vòng tròn màu vàng) (Theo tài liệu đo vẽ bản đồ địa chất 1:200.000 của Liên Đoàn Bản đồ Địa chất và 1:50.000 của Liên Đoàn Địa chất 4).

 

* Hệ tầng Sông Cả (O3- S1 sc): với thành phần chủ yếu là đá phiến thạch anh - sericit, xen ít lớp hoặc cát kết dạng quarzit xen kẽ đá phiến thạch anh - sericit.

 * Hệ tầng Huổi Nhị (S2 -  D1 hn: thành phần  chủ yếu là cát kết hạt vừa - nhỏ, phân lớp mỏng; đá phiến sét - sericit màu xám lục, xám sẫm, xám đen, kẹp đôi lớp bột kết mỏng.

  * Carbon hạ, hệ tầng La Khê (C1 lk): thành phần chủ yếu là các đá cát kết chứa vôi màu đen, bột kết xám tro, đá phiến sét màu đen, đá phiến silic.

*  Hệ tầng Bắc Sơn (C -  P bs): thành phần thạch học chủ yếu là đá vôi xám, xám sáng, hạt vừa, cấu tạo trứng cá, đôi chỗ bị tái kết tinh yếu; đá hoa màu trắng có cấu tạo dạng đường, phân lớp kém đến dạng khối.

 * Hệ tầng Ðồng Trầu (T2a đt): thành phần bao gồm cuội kết, sạn kết, cát kết, đá phiến sét;  ryolit, đacit và tuf ; bột kết xen đá phiến sét, cát kết màu xám lục đến xám tro.

* Neogen, hệ tầng Khe Bố (N kb): thành phần chủ yếu là cuội kết, dăm kết, chuyển lên trên là cuội kết, sét kết xen cát kết hạt thô; trầm tích rất đa khoáng (tập 1). Phần trên là cát kết hạt không đều, màu xám nâu, chuyển lên bột kết, sét kết màu nâu đen, xám đen, và các vỉa than dạng lớp hay thấu kính...

*  Các trầm tích Ðệ tứ: phân bố ở các bậc thềm ven sông Cả và một vài thung lũng của các suối lớn. Ðó là các tích tụ aluvi, deluvi, proluvi, gồm cuội, sạn sỏi và cát bở rời. Trong các trầm tích này tại nhiều nơi có mặt rộng rãi vàng sa khoáng, đặc biệt dọc Sông Cả từ Canh Tráp xuống đến Tân Lập.

1.2.2. Magma

Trong vùng Tương Dương có mặt các đá magma của Sông Mã (γτT2 sm) và Núi Chúa (νT3nc), phức hệ Phiabioc (γaT3n pb).

   1.2.2.1. Phức hệ Sông Mã (γτT2 sm)

Thuộc phức hệ này trong vùng Tương Dương có khối Phu Xai, cách khe bố gần 10km về phía tây, diện lộ 20km2, thành phần chủ yếu là granit biotit dạng porphyr, granit granophyr, granođiorit dạng porphyr; granit aplit. Các đá phức hệ này chứa tập hợp các nguyên tố: Sn, Pb, Zn, Sb luôn cao hơn clark. Ðặc điểm thạch địa hóa của các đá granitoid phức hệ Sông Mã tương đồng với các đá phun trào axit thuộc hệ tầng Ðồng Trầu.

   1.2.2.2. Phức hệ Núi Chúa (νT3nc),        

          Thường có diện tích nhỏ, các thể tù ở trong granit khối Nậm Kiền, Xiềng Líp, ngoài ra còn tạo thành các thấu kính nhỏ chúng xuyên qua trầm tích hệ tầng Sông Cả. Thành phần thạch học gồm: gabronorit, gabro, gabrođiabas, điabas và gabrođiorit, đôi khi còn gặp điorit. Các đá của phức hệ đặc trưng bởi Co, Zn, Hg, Yb có hàm lượng cao hơn clark nhiều lần.

   1.2.2.3. Phức hệ Phiabioc (γaT3n pb).

Trong vùng nghiên cứu có các khối Nậm Kiền và Xiềng Líp. Khối Nậm Kiền nằm về phía tây Cửa Rào 12km, diện tích 470km2. khối là một thể batholit lớn, có hình dạng phức tạp, kéo dài theo phương Ðông-Đông bắc  - Tây-Tây nam.Thành phần gồm granit biotit sẫm màu, granođiorit, ít điorit thạch anh. Pha muộn hơn gồm granit hai mica, granit muscovit, granit biotit hạt nhỏ, các đai mạch aplit và pegmatit.

          Khối Xiềng Líp nằm về phía Ðông bắc của Cửa Rào 25km, diện tích 14km2, , nằm ở phần trung tâm nếp lồi hệ tầng Sông Cả. Ðới đá sừng có nét tương tự khối Nậm Kiền. Thành phần thạch học của khối Xiềng Líp gồm các đá tương ứng như khối Nậm Kiền. Trong vùng Xiềng Líp có nhiều mạch thạch anh chứa sulfur đa kim xuyên qua granit và đá vây quanh. Phía đông khối Xiềng Líp có vành phân tán trọng sa của vàng với hàm lượng khá cao. Về địa hóa, trong đá có nguyên tố đáng chú ý như Zn cao hơn mức clark; trong các đá pha 2 và 3 có các nguyên tố Ag, Zn, Pb, Mo và Sr luôn cao hơn số clark.

   1.2.3. Kiến tạo

Khu vực Tương Dương nằm ở cánh Tây nam đới cấu trúc Sông Cả, thuộc miền uốn nếp Việt – Lào; về phía Bắc và Đông bắc tiếp giáp với đới Phu Hoạt, phía Tây Nam tiếp giáp với đới Long Ðại, phía đông là đới Hoành Sơn. Ðới sông cả gồm các phức hệ thạch kiến tạo Paleozoi hạ - trung, Paleozoi thượng, Mesozoi và Kainozoi. Tại trung tâm vùng nghiên cứu, các đá trầm tích tạo thành một nếp lồi lớn.

  * Đứt gãy: Trong phạm vi vùng Tương Dương chủ yếu có 2 hệ thống đứt gãy phương Tây bắc - Đông nam và Đông bắc - Tây nam, hướng cắm mặt trượt thường về phía Đông bắc. Riêng đứt gãy Sông Cả là một đứt gãy lớn có mặt trượt cắm về Tây nam với góc 65o, đạt độ sâu 35km (Cao Ðình Triều, 1983). Hệ thống đứt gãy phương Đông bắc - Tây nam có quy mô và mức độ hoạt động đều kém hệ thống đứt gãy phương Tây bắc - Đông nam, hầu hết là đứt gãy thuận, mặt trượt dốc đến 80o.

1.3. Tiềm năng vàng vùng Tương Dương

1.3.1. Khái quát chung

 Tương Dương là một vùng có tiềm năng nổi bật về vàng. Cho đến nay, tại vùng Tương Dương đã xác định được một số mỏ và một số điểm quặng vàng.

Trong thời gian chỉnh lý bản đồ Địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500 000, một diện tích khoảng vài trăm kilomet vuông vùng Yên Na có chứa vàng sa khoáng đã được khoanh định. Trong những năm 1962-1964, Ðoàn Ðịa chất 20 và 23 đã tiến hành tìm kiếm vàng sa khoáng tại Tương Dương và Yên Na và xác định được một số mỏ sa khoáng vàng. Trong những năm 1992-1994, liên đoàn Ðịa chất 4 đã tìm kiếm bổ sung vàng gốc và vàng sa khoáng vùng này. Ðến nay, trên diện tích này đã ghi nhận được một số mỏ sa khoáng và một số điểm quặng gốc.

          Các mỏ và điểm quặng vàng đều tập trung trong một cấu trúc nếp lồi bị các đứt gãy phương Tây bắc - Đông nam làm dịch chuyển. Tại phần Trung tâm nếp uốn là các đá biến chất thuộc phân hệ tầng Sông Cả dưới (O3 - S1 sc1), gồm đá phiến thạch anh - sericit, đá phiến thạch anh mica, quarzit. Các cánh nếp uốn là đá phiến sericit, cát kết, bột kết màu xám tro, xám đen, xen ít đá vôi thuộc phân hệ tầng Sông cả Giữa (O3 - S1 sc2). Ở gần trung tâm nếp uốn có mặt thể xâm nhập thuộc phức hệ Phia bioc với diện lộ khoảng 7km2. Ðá vây quanh của xâm nhập bị sừng hoá và greisen hoá. Ðá trầm tích bị cà nát mạnh. Trong đới cà nát này đã biết hai điểm quặng vàng gốc Yên Na và Xiềng Líp. Xuôi xuống phía Đông Nam (Con Cuông) là các điểm vàng ở khu vực Khe Chai và Chôm Lôm.

   1.3.2. Đánh giá tiềm năng quặng vàng khu vực Tương Dương

Trên địa bàn tỉnh Nghệ An, các tài liệu điều tra cho đến nay đã ghi nhận có 6 mỏ, 4 điểm và 2 biểu hiện khoáng sản vàng. Gồm 2 loại hình là vàng gốc và vàng sa khoáng. Trong đó vàng gốc chưa được nghiên cứu đầy đủ. Vàng sa khoáng được nghiên cứu kỹ hơn cho thấy có trữ lượng khá lớn và tương đối có triển vọng. Hầu hết các mỏ và điểm khoáng sản chỉ được tìm kiếm sơ bộ hoặc tìm kiếm đánh giá. Tổng trữ lượng cấp C1+C2 là 1.014kg vàng, 2.448kg bạc; tài nguyên dự báo cấp P (tương đương cấp 331-333) là 17.000kg vàng, 5.100kg bạc.

Vàng phân bố tập trung chủ yếu ở khu vực Tương Dương và Con Cuông. Ngoài ra còn phân bố rải rác ở Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quỳnh Lưu.

Ở khu vực Tương Dương - Con Cuông, vàng tập trung ở vùng Yên Na và dọc theo sông Cả. Ở Yên Na có mỏ vàng sa khoáng Yên Na và vàng gốc Yên Na, điểm vàng gốc Xiềng Líp. Mỏ vàng gốc Yên Na bước đầu đã được thăm dò đến độ sâu 75m, trữ lượng kim loại cấp 122 đạt 84kg; Tài nguyên cấp 333 là 296kg. Mỏ đang chờ giấy phép khai thác của bộ Tài Nguyên và Môi Trường. Điểm vàng gốc Xiềng Líp chưa được khảo sát chi tiết. Một trong những vấn đề quan trọng là nguồn gốc và loại hình quặng vàng gốc trong khu vực cũng chưa được nghiên cứu. Hiện nay chưa rõ quan hệ giữa các thân quặng vàng với các khối magma trong vùng Tương Dương.

Dọc theo sông Cả, đoạn từ Cửa Rào (Tương Dương) đến Chi Khê (Con Cuông), vàng sa khoáng nằm trong các tích tụ thềm I, thềm II và bãi bồi. Các thân sa khoáng nằm gần như liên tục 2 bên bờ sông. Kết quả tìm kiếm của Liên đoàn 4 năm 1994 đã khoanh định 3 khu vực chứa vàng sa khoáng liên tiếp nhau là Canh Tráp, Bản Chổng và Tiến Thành. Tổng tài nguyên dự báo cấp P ở 3 khu vực này là 6.800kg. Cũng trong khu vực này kết quả tìm kiếm của Liên đoàn 4 đã phát hiện 2 điểm vàng gốc là Khe Chai và Chôm Lôm. Điểm Khe Chai đã được tìm kiếm bước đầu và xác định tài nguyên dự báo cấp P là 3.180kg vàng, tương đối có triển vọng. Khoáng sản đi kèm có bạc, chì. Điểm vàng Khe Chai có thể tiến hành thăm dò, khai thác kết hợp với khai thác sa khoáng dọc sông Cả. Biểu hiện khoáng sản vàng Chôm Lôm mới chỉ có nhưng nghiên cứu sơ bộ ban đầu chưa rõ triển vọng.


Hình 2: Khu vực tìm kiếm đánh giá vàng sa khoáng và các điểm quặng vàng tại  Tương Dương, Nghệ An của Liên Đoàn Địa chất 4 (1994).

Tóm lại, khu vực Tương Dương, mặc dù có tiềm năng tốt về vàng gốc và vàng sa khoáng, nhưng trong thực tế tại khu vực này chỉ mới có các công tác tìm kiếm sơ bộ ban đầu và những công tác khai thác tận thu nhỏ lẻ, chưa đánh giá được thực sự tiềm năng to lớn của vàng tại đây. Duy nhất trong vùng có một dự án thăm dò khai thác tương đối có quy củ là dự án thăm dò-khai thác vàng Yên Na.

 

II. GIỚI THIỆU MỎ VÀNG YÊN NA

2.1. Thông tin về chủ Dự án

Dự án vàng Yên Na, Nghệ An thuộc sở hữu của Liên Danh khai thác và chế biến khoáng sản giữa Công ty Cổ phần Xây dựng và Thương mại Tổng hợp Thủ Đô  và Công ty Cổ phần khai thác mỏ và Xây dựng Nam Giang (Liên danh này tại phần sau được gọi tắt là Công ty).

2.1.1. Công ty Cổ phần Xây dựng và Thương mại thủ đô:

Trụ sở tại: 251- Đường Giải phóng, Quận Đống Đa, Hà Nội

Điện thoại: 84 (0) 902223383               Fax: + 84.4.36686503

2.1.2. Công ty cổ phần khai thác Mỏ và Xây dựng Nam Giang:

Trụ sở tại : Số 6B-Lô B-khu X2-Dịch Vọng-Quận Cầu Giấy-TP Hà Nội

Điện thoại: 84.4.37545797                  Fax: + 84.4.37930342

Công ty cổ phần Xây dựng và Thương mại tổng hợp Thủ Đô cùng với Công ty cổ phần Khai thác mỏ và Xây dựng Nam Giang (gọi tắt là Công ty) là các doanh nghiệp chuyên hoạt động về khai thác và chế biến chuyên sâu về khoáng sản có chứa vàng, thiếc. Công ty có đội ngũ cán bộ chuyên sâu về tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến sâu quặng vàng và các loại khoáng sản kim loại khác. Công ty cũng được sự trợ giúp và tư vấn của các chuyên gia đầu ngành về khoáng sản vàng của Việt Nam, các chuyên gia về địa chất-khoáng sản nước ngoài từ các nước như  Australia, Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc...

+ Công ty có quan hệ rất tốt với các cấp chính quyền từ Trung ương đến các địa phương. Công ty đã và đang được sự tin tưởng và ủng hộ và hợp tác hiệu quả của Đảng và chính phủ Việt Nam, chính quyền địa phương và nhân dân nơi triển khai dự án.

+ Hiện tại Công ty đã được cấp phép thăm dò và khai thác 12 mỏ quặng có chứa vàng và kim loại khác, trong đó có các khu mỏ nổi bật là:

-       Mỏ vàng gốc tại khu vực Yên Na-Yên Tĩnh, huyện Tương Dương, Nghệ An.

-       Mỏ quặng Đa kim -Vàng tại các xã Kim Sơn, xã Hợp Kim huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.

-       Khu mỏ quặng Vàng tại Bồng Miêu, tỉnh Quảng Nam; đang triển khai công tác thăm dò; giấy phép do Bộ Tài nguyên Môi trường cấp.

-       Khu mỏ quặng Thiếc-Vàng tại huyện Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt đang được triển khai thăm dò theo giấy phép của bộ TN&MT.

-       Khu mỏ quặng Antimon tại Sơn La

-       Khu mỏ Vàng-Antimon tại tỉnh Hà Giang

-       Khu mỏ Vàng  tại tỉnh Lai Châu

Ngoài ra còn một số khu mỏ Vàng khác trên lãnh thổ Việt Nam đang được triển khai hoạt động thăm dò khoáng sản được các cấp có thẩm quyền nhà nước Việt Nam cấp phép thực hiện.

2.2. Các thông tin chính của khu mỏ vàng Yên Na

2.2.1. Vị trí, diện tích khu mỏ

Khu mỏ nằm trên địa bàn xã Yên Tĩnh và xã Yên Na, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An (xem hình 3) với diện tích 126,71 ha. Khu mỏ nằm ở sườn Đông bắc của dải Trường Sơn, trên địa hình tương đối cao (từ 320 đến 670m), phân cắt khá mạnh.

2.2.2. Đặc điểm cơ sở hạ tầng

- Trong diện tích thăm dò không có cư dân sinh sống, không có vườn rừng, vườn cây ăn quả, cây công nghiệp mà chỉ là nương rãy của dân trồng ngô, sắn và đất trống đồi trọc, vườn tạp tái sinh; có vài lán coi nương.

- Hệ thống giao thông trong vùng: Từ khu vực thuỷ điện Bản Vẽ đến Yên Xá (Khoảng 7 km) là đường liên tỉnh đã được trải nhựa. Từ Yên Xá tới trung tâm xã Yên Tĩnh (Bản Cà Toòng) với chiều dài khoảng 14 km, hiện đã được đầu tư mở đường liên xã. Đường giao thông đã thảm nhựa đến chân Mỏ (Cách trung tâm Mỏ 3.5 km).

- Lưới điện: Đường điện 35 KVA đã có đến cách mỏ 3 km.

Việc mở đường giao thông và kéo điện lên trung tâm Mỏ tương đối thuận lợi; dự kiến khi có vốn đầu tư chỉ xây dựng trong khoảng 60 ngày sẽ hoàn thiện đến trung tâm Mỏ.


Hình 3. Vị trí khu vực Mỏ Vàng Yên Na

2.3.  Tóm tắt  đặc điểm mỏ vàng Yên Na

2.3.1. Địa chất

*  Địa tầng: Trong diện tích thăm dò khu mỏ vàng gốc khu Yên Na – Yên Tĩnh có mặt các trầm tích thuộc phân hệ tầng Sông Cả giữa (O3-S1sc2) và các trầm tích bở rời hệ Đệ Tứ không phân chia.

* Magma: Trong diện tích thăm dò chưa phát hiện được các thành tạo magma xâm nhập nhưng ở phía tây nam, ngoài diện tích thăm dò khoảng 4km có khối magma xâm nhập phức hệ PhiaBioc (γaT3pb).

* Đặc điểm cấu trúc và kiến tạo: Tại Yên Na – Yên Tĩnh, các đất đá của Hệ tầng Sông Cả tạo thành cấu trúc một nếp lồi có phương tây- tây bắc – đông-đông nam, các lớp đá cắm về bắc- đông bắc và nam- tây nam với góc dốc trung bình 40-60o. Công tác khảo sát cho thấy khu Yên Na – Yên Tĩnh chịu tác động của 2 hệ thống đứt gãy là hệ thống đông bắc – tây nam và tây bắc – đông nam. Các đứt gãy này đã làm cho các đá của hệ tầng Sông Cả bị nén ép, dập vỡ, biến đổi nhiệt dịch tạo điều kiện thuận lợi cho thành tạo tích tụ các mạch thạch anh sulfur chứa vàng.

2.3.2. Đặc điểm phân bố Khoáng sản

Trong diện tích khu mỏ đã phát hiện 6 thân quặng, các thân quặng này kéo dài theo phương tây bắc-đông nam với thế nằm thay đổi trong khoảng 10-400 Ð 50-600 , độ dài thân quặng dao động từ 190 m đến 820m.

Sau đây giới thiệu tóm tắt đặc điểm 6 thân quặng vàng chính của mỏ Yên Na:

2.3.2.1.Thân quặng 1 (TQ.I): Thân quặng này phân bố ở tây nam vùng mỏ, kéo dài khoảng 190m không liên tục theo phương tây bắc - đông nam từ trung tâm khu Yên Na đến tây nam khu Yên Tĩnh, bề dày thân quặng thay đổi từ 0,25m đến 0,5m trung bình là 0,28m. Thân quặng nằm gần trùng với mặt phân lớp và phân phiến đá phiến thạch anh–sericit, thế nằm 100-200Ð500-550. Thành phần khoáng vật quặng chủ yếu gồm có limonit: 2-3%, pyrit: 3%, ít chalcopyrit, galena. Vàng ở dạng xâm tán không đều. Hàm lượng lượng vàng trong thân quặng thay đổi từ 2,3g/tấn đến 7,7g/tấn, trung bình 4,7g/tấn.

2.3.2.2.Thân quặng 2 (TQ.II): Thân quặng này nằm phía trên thân quặng 1, ở phía tây nam diện tích thăm dò. Thân quặng kéo dài không liên tục khoảng 780m theo phương tây bắc – đông nam. Chiều dày thân quặng thay đổi từ 0,13m đến 1,26m, trung bình 0,39m. Quặng nằm trùng hoặc gần trùng với mặt phân lớp của đá phiến thạch anh- sericit. Thế nằm 20-300Ð50-600. Thành phần khoáng vật: bao gồm có limonit (4,5%), pyrit (0,5%), ngoài ra còn một ít chalcopyrit, arsenopyrit. Hàm lượng vàng thay đổi từ 1,1g/tấn đến 12,57g/tấn, trung bình 6,55g/tấn.

2.3.2.3.Thân quặng 3 (TQ.III): Thân quặng này nằm trên thân quặng 2, kéo dài không liên tục từ trung tâm khu Yên Na đến tây nam Yên Tĩnh khoảng 700m, theo phương tây bắc - đông nam.; có chiều dày thay đổi từ 0,16m đến 0,75m, trung bình 0,32m. Quặng phân bố trùng với mặt phân lớp của đá phiến thạch anh sericit, cát - bột kết, thế nằm thân quặng 10-300Ð50-600. Khoáng vật quặng chủ yếu gồm limonit (2%), ít pyrit, asenopyrit. Hàm lượng vàng thay đổi từ 1,2g/tấn đến 10,2g/tấn, trung bình 6,05g/tấn. Trong quặng chủ yếu là vàng, còn bạc và các nguyên tố khác có hàm lượng không đáng kể.

2.4.2.4. Thân quặng 3a (TQ.III-A): Thân quặng 3a nằm trên thân quặng 3, kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam không liên tục từ trung tâm khu Yên Na đến tây nam khu Yên Tĩnh với độ dài khoảng 820m. Chiều dày thân quặng thay đổi từ 0,18m đến 0,8m, trung bình 0,36m. Thế nằm thân quặng thay đổi từ 10- 300 Ð 50-550. Khoáng vật quặng chủ yếu là limonit (0,5-3%), pyrit (1,5-3%); vàng xâm tán không đều hạt nhỏ. Hàm lượng vàng thay đổi từ 1,1g/tấn đến 12,29g/tấn, trung bình 5,95g/tấn.

2.4.2.5. Thân quặng 4 (TQ.IV): Thân quặng này nằm trên thân quặng 3a, phân bố gần trung tâm khu thăm dò, kéo dài không liên tục theo phương tây bắc - đông nam khoảng 820m. Chiều dày thân quặng thay đổi từ 0,18m đến 0,7m, trung bình 0,32m. Thế nằm thay đổi từ 10-300 Ð 50-600. Khoáng vật quặng chủ yếu vẫn là limonit (3%), ít pyrit. Hàm lượng vàng thay đổi từ 1,7g/tấn (L.9) đến 10,57g/tấn, trung bình 4,76g/tấn.

2.4.2.6. Thân quặng 5 (TQ.V): Nằm ở phía trên cùng, gần bề mặt địa hình hiện đại. Quặng phân bố bên trên thân quặng 4 phía bắc khu Yên Na và chạy qua trung tâm khu Yên Tĩnh, kéo dài không liên tục theo phương tây bắc – đông nam với chiều dài khoảng trên 640m. Chiều dày thân quặng thay đổi từ 0,22m đến 0,55m, trung bình 0,33m. Thế nằm thay đổi từ 10-400 Ð 50-600. Khoáng vật quặng chủ yếu là limonit, ít pyrit, asenopyrit.  Hàm lượng vàng thay đổi từ 2,1g/tấn đến 7,8g/, trung bình 4,73g/tấn.

- Trữ lượng mỏ: Theo các tài liệu thăm dò đến độ sâu khoảng 75m, trữ lượng vàng kim loại cấp 122 đạt 84kg; Tài nguyên cấp 333 là 296kg. Có khả năng tăng trữ lượng mỏ lên cao khi tiếp tục thăm dò xuống dưới sâu và mở rộng vùng thăm dò.        

2.5.  Hiện trạng thực tế và pháp lý của mỏ

2.5.1.Hiện trạng thực tế của Mỏ

- Hiện tại một phần các thân quặng ở khu vực mỏ đã bị tiến hành khai thác thổ phỉ phần trên mặt với một số lò, hố. Đến thời điểm hiện tại vẫn còn hiện tượng khai thác trái phép xảy ra ở bên ngoài mỏ nhưng với quy mô nhỏ.

- Công ty đã hoàn thành các giấy tờ xin phép khai thác mỏ và đã nộp cho Bộ Tài nguyên Môi trường. Mỏ đang chờ được Bộ Tài Nguyên môi trường cấp giấy phép khai thác (dự kiến thời gian trong vòng 16 năm và có thể xin gia hạn).

2.5.2. Khối lượng công việc khảo sát-thăm dò đã  thực hiện tại khu Mỏ

+ Đo vẽ trắc địa, thành lập bản đồ địa hình, bản đồ địa chất tỷ lệ 1:2.000 trên diện tích 126,71ha.  Đo địa vật lý 400 điểm mặt cắt phân cực kích thích và 224 điểm đo sâu phân cực kích thích. Công tác Khoan và khai đào: đã thực hiện 464m/10 lỗ khoan; Đào lò 498m/21 lò bằng; Đào hào: 1.150m3/65 hào. Phân tích: 389 mẫu xác định hàm lượng Au, 20 mẫu hoá toàn diện, 30 mẫu plasma, 50 mẫu thạch học, 25 mẫu thể trọng nhỏ, 30 mẫu khoáng tướng, 35 mẫu cơ lý và 01 mẫu công nghệ.

2.5.1.Hiện trạng pháp lý của Mỏ

- Khu Mỏ vàng Yên Na-Yên Tĩnh đã được cấp phép thăm dò theo quyết định số 633/GP-BTNMT cấp ngày 28/3/2008. Công ty đã thuê Công ty Quốc Bảo tiến hành thăm dò theo quy chuẩn của bộ TN&MT Việt Nam.

- Báo cáo công tác thăm dò mỏ đã được hội đồng xét duyệt quốc gia của bộ TN&MT thẩm định và công nhận trữ lượng:

-         Hàm lượng trung bình khối trữ lượng Au : 3 g/tấn

-         Trữ lượng cấp 122 là 84 kg Au

-         Trữ lượng cấp 333 là 296 kg Au

(Thực tế trữ lượng vàng tại mỏ có tiềm năng cao hơn nhiều lần so với số liệu đã thăm dò, vì lý do kinh phí còn hạn hẹp, các công tác khảo sát mới được tiến hành đến độ sâu khoảng 70-75m. Một số ước tính cho rằng trữ lượng thực tế của mỏ và khu vực xung quanh có thể lên đến 50 tấn vàng kim loại).

- Công ty cũng đã hoàn thành báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của dự án khai thác mỏ vàng Yên Na-Yên Tĩnh, báo cáo  cũng đã được sở TN-MT Nghệ An, UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt tại Quyết định số 2001/QĐ-UBND ngày 22/5/2013.

- Dự án đầu tư khai thác mỏ do Trung tâm nghiên cứu, thực nghiệm khai thác mỏ thuộc trường Đại học Mỏ-Địa chất đã lập, hiện đã trình Bộ Tài nguyên và Môi trường.

- Tài liệu địa chất chính được sử dụng để làm hồ sơ xin cấp phép là báo cáo thăm dò khu mỏ mỏ Yên Na của Công ty cổ phần tư vấn và xây dựng Quốc Bảo;

Ngoài các công trình khảo sát địa chất và Địa vật lý, khoan và khai đào, phân tích mẫu, trong báo còn sử dụng các nguồn tài liệu của Liên đoàn địa chất Bắc trung bộ, Đoàn địa chất 23 (Tổng cục địa chất trước đây, nay là Tổng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam thuộc Bộ Tài Nguyên và Môi trường khảo sát). Các tài liệu địa chất khoáng sản của chuyên gia Liên Xô và Liên đoàn Bản đồ địa chất cũng được sử dụng.

-  Diện xin cấp phép khai thác là 126,71 Ha. Dự kiến xin cấp phép khai thác khoảng 16 năm; trong thời gian khai thác công ty có thể triển khai thăm dò bổ sung, mở rộng để xin đánh giá lại trữ lượng thực tế tại khu vực mỏ để làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư khai thác, chế biến quặng Vàng.

- Hiện nay khu Mỏ Yên Na-Yên Tĩnh đang chờ được Bộ Tài nguyên và Môi trường ký cấp phép hoạt động (Có sự đồng ý của Thủ tướng chính phủ đồng ý cấp phép).

- Dự án đã được UBND tỉnh Nghệ An cấp giấy chứng nhận đầu tư

 

 

KẾT LUẬN

 

       Khu vực Tương Dương, Nghệ An là một địa phương có các điều kiện địa chất tự nhiên thuận lợi cho việc hình thành các mỏ vàng. Kết quả nghiên cứu của các nhà địa chất trước đây và kết quả thăm dò của Công ty cổ phần xây dựng và thương mại tổng hợp Thủ Đô Công ty cổ phần Khai thác mỏ và Xây dựng Nam Giang là những bằng chứng ban đầu để khẳng định nhiều khả năng tồn tại một trữ lượng vàng thương mại lên đến hàng chục tấn tại Tương Dương.

       Với mục tiêu phát triển mỏ vàng Yên Na-Yên Tĩnh ở quy mô khai thác, tuyển, luyện công nghiệp làm bàn đạp để tiến hành thăm dò bổ sung 250m đến 300m sâu và mở rộng bao trùm toàn bộ cấu trúc khống chế quặng vàng Tương Dương hướng tới một mỏ vàng lớn với trữ lượng 20 đến 30 tấn Au, Công ty cổ phần xây dựng và thương mại tổng hợp Thủ Đô Công ty cổ phần Khai thác mỏ và Xây dựng Nam Giang sẵn sàng chia sẻ cơ hội với các đối tác trong và ngoài nước và tin tưởng chắc chắn rằng nếu được đầu tư đúng mức về kỹ thuật cũng như công nghệ và tài chính, tiềm năng vàng của khu vực Tương Dương sẽ trở thành tiềm lực to lớn của tất cả các nhà đầu tư trong tương lai không xa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1-    Báo cáo Tìm kiếm vàng Yên Na, Tương Dương, Nghệ An; Huỳnh Tấn Bi, Đoàn Địa chất 20; Cục Địa chất Việt Nam, 1963

2-    Báo cáo Tìm kiếm sơ bộ sa khoáng vàng vùng Yên Na, Tương Dương, Nghệ An. Nguyễn Hữu Dung Đoàn Địa chất 23 ; Cục Địa chất Việt Nam,  1964

3-    Nguyễn Văn Hoành: Báo cáo Đo vẽ thành lập bản đồ Địa cahát và khoáng sản tờ Xiêng Khoảng-Tương Dương tỷ lệ 1: 200.000. Tổng cục Địa chất - 1978, hiệu đính 1996.

4-    Báo cáo Tìm kiếm khoáng sản vàng vùng Yên Na, Nghệ Tĩnh (Nghệ An), Hồ Duy Thanh, Liên Đoàn Địa chất 4, 1988

5-    Báo cáo Tìm kiếm vàng dọc Sông Cả vùng Con Cuông, Tương Dương, Nghệ An. Nguyễn Văn Bốn, Liên Đoàn Địa chất 4, 1994.

6-   Báo cáo đo vẽ bản đồ Địa chất và Khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Tương Dương. Trần Toàn, (Liên Đoàn Địa chất 4), 1998.

7-   Báo cáo thăm dò vàng gốc khu Yên Na – Yên Tĩnh, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Trần Văn Thụ (chủ Biên). Công ty CP Thương Mại và Xây dựng Tổng hợp Thủ Đô, 2010

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét